Tôi là Lan, 28 tuổi, được chồng ba năm. Tôi, Nam, là một kỹ sư xây dựng, thường xuyên đi công tác xa. Chúng tôi sống cùng mẹ chồng, bà Hiền, trong một căn nhà hai tầng ở ngoại ô Hà Nội. Bà Hiền là người phụ nữ chuyển giao, khắc phục nghiêm trọng nhưng không đến mức độ khắc nghiệt. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa tôi và bà luôn có một khoảng cách vô hình. Bà hay so sánh tôi với những loại dâu khác trong dòng họ, từ cách nấu ăn đến cách chăm sóc. Tôi luôn cố gắng làm tròn bổn phận nhưng phải như chưa bao giờ tạo nên bà hài lòng.
Một ngày nọ, Nam đi công tác ở Đà Nẵng, dự kiến cả tháng mới về. Tôi ở nhà, vừa đi làm, vừa lo cơm nước, dọn dẹp, và chăm sóc bà Hiền. Mọi thứ vẫn bình yên thường đến buổi chiều định mệnh ấy, khi bà Hiền đột ngột dẫn về nhà mười người khách – toàn những bà cô, bà bác trong họ hàng xa. Bà cười tươi, tuyên bố: “Lan ơi, chuẩn bị cơm nước tiếp khách cho mẹ! Hôm nay nhà mình đông vui, con lo chug nhé!”
Tôi ngơ ngác. Mười người, mà bà không báo trước một lời trả lời? Nhà chỉ còn ít rau, vài quả trứng, và một ít thịt trong tủ lạnh. Tôi cố gắng giữ bình tĩnh, tức cười: “Dạ, mẹ cứ để con lo.” Nhưng trong lòng tôi rối như tơ vò. Làm sao để nấu một bữa cơm trưa tươm tất cho người từng ấy với nguồn nguyên liệu ít như vậy?
Tôi lao vào bếp, cố gắng tính toán. Mười người, cộng thêm tôi và bà Hiền, tức mười hai là hai miệng ăn. Trong tủ lạnh chỉ có ba quả trứng, một ít thịt băm, một bó rau muống, và một ít khoai tây. Tôi lục khắp nhà, may mắn tìm được một gói nấm khô và một ít hương thơm từ lần Nam mua về. Tôi quyết định làm một bữa cơm đơn giản nhưng phải đủ chất: cơm trắng, rau muốn xào tỏi, thịt băm kho trứng, canh hồng, và khoai tây chiên. Nhưng với lượng thức ăn ít ỏi, tôi phải xoay xở để làm sao cho món cơm nhìn đầy đủ.
Tôi gọi điện cho chị Hoa, hàng xóm thân thiết, nhờ chị chạy ra chợ mua giúp ít rau củ và một con gà. Chị Hoa nhiệt tình, chỉ nửa tiếng sau đã mang đến một con gà tươi, ít hành tím, và một bó cải. Tôi cảm ơn rít rối, rồi bắt tay vào làm. Gà tơ, lấy nước nấu canh cải; thịt băm trộn với hồng khô, kho cùng trứng; khoai tây chiên giòn; rau muốn xào thật xanh. Tôi làm việc như một cơn lốc, vừa nấu vừa lo khách đói, vừa sợ mẹ chồng chê bai.
Trong lúc tôi bật lên, bà Hiền dẫn các vị khách đi参观 nhà, khỏe bộ bàn gỗ mới mua và mấy chậu cây cảnh ngoài sân sân. Tôi nghe loáng thoáng tiếng bà nói: “Con dâu tôi đảm lắm, nấu nướng giỏi, các bác cứ yên tâm!” Tôi vừa đúng với động lực. Chúc mừng vì bà khen, nhưng lo vì không biết mâm cơm có đủ làm bà hài lòng hay không.
Sau gần hai tiếng hì hụi, tôi hoàn thành mâm cơm. Tôi trình bày bảo vệ cẩn thận trên bàn ăn lớn: đĩa gà màu vàng ngọc, rau muống xào xanh mướt, thịt băm kho trứng thơm lừng, canh cải thiện ngọt thanh, và khoai tây chiên vàng ruộm. Tôi còn tỉ tỉ tỉ rau thành hình hoa để mâm cơm nhìn bắt mắt hơn. Xem thành quả, tôi thở ra, tự động: “Tạm tạm ổn!”
Tôi sẽ cười tươi, bưng mâm cơm ra phòng khách, nơi bà Hiền và các vị khách đang trò chuyện rôm rả. “Mời mẹ và các bác dùng cơm ạ!” tôi nói, cố gắng nói giọng tự động. Các vị khách tấm tắc khen: “Ôi, con dâu chắc quá! Mâm cơm thế này là nhất rồi!” Tôi cười, nhưng khi nhìn sang bà Hiền, tôi giật lấy mình. Gương mặt bà tái mét, mắt mở to, như thể vừa nhìn thấy ma. Bà đứng dậy, gắn bắp: “Lan… con… con lấy đâu ra gà mà sống?”
Tôi ngơ ngác, chưa đáp ứng câu trả lời, thì một bà bác lên tiếng: “Ồ, chị Hiền, chị lo gì? Con dâu chị khéo thế này, chị phải tự hào chứ!” Nhưng bà Hiền không đáp, chỉ nhìn phản cảm vào đĩa thịt gà, tay chạy chạy. Tôi bắt đầu cảm thấy bất an. Có chuyện gì không ổn, nhưng tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Buổi diễn ra trong không khí không xác định. Các vị khách ăn vui vẻ, khen thưởng tài nấu nướng của tôi, nhưng bà Hiền gần như không động thanh. Bà chỉ ngồi im, mắt cứt vào đĩa hồn. Tôi cố hỏi nhỏ: “Mẹ, mẹ không khỏe ạ?” Bà cử đầu, giọng chạy: “Không… không sao. Con cứ tiếp khách đi.” Nhưng tôi biết, có điều gì bà đang giấu.
Đêm đó, sau khi khách về, tôi sẽ dẹp bếp xong thì thấy bà Hiền ngồi thẫn thờ ngoài sân sân. Tôi đến gần, nhẹ nhàng hỏi: “Mẹ, có chuyện gì tạo mẹ không vui ạ? Con làm gì sai sao?” Bà Hiền nhìn tôi, mắt đỏ hoe, rồi thở dài: “Lan, con lấy con gà đó ở đâu?”
Tôi ngạc nhiên, đáp: “Dạ, con nhờ chị Hoa hàng xóm mua ở chợ giúp. Nhà mình hết nguyên liệu, con không biết làm sao nên…” Chưa kịp nói hết, bà Hiền bật khóc. Tôi hoảng hốt, chưa bao giờ thấy mẹ chồng mình yếu đuối như vậy.
Nhưng khi mọi người ngồi vào bàn, tôi nhận ra không khí bỗng trở nên kỳ lạ. Các vị khách nhìn mâm cơm, rồi nhìn nhau, không ai động đũa. Mẹ chồng tôi, bà Hạnh, bỗng tái mặt, tay cầm ly nước run run. “Lan… con… con làm cái gì thế này?” – bà lắp bắp, giọng gần như hoảng hốt. Tôi ngơ ngác, không hiểu chuyện gì. “Dạ, con làm cơm tiếp khách như mẹ dặn mà. Có gì không ổn ạ?”
Bà Hạnh đứng bật dậy, kéo tôi ra một góc, thì thào: “Trời ơi, Lan, mẹ bảo con tiếp khách, nhưng không phải thế này! Họ… họ không phải khách thường đâu!” Tôi càng hoang mang, tim đập thình thịch. “Dạ, vậy họ là ai ạ? Mẹ không nói gì với con cả!”
Mẹ chồng thở dài, mắt đỏ hoe, rồi kể với tôi sự thật. Hóa ra, mười người khách kia không phải bạn bè của bà, mà là những người từng được bố chồng tôi – ông Tâm, người đã mất cách đây năm năm – giúp đỡ khi còn sống. Ông Tâm là một thầy giáo làng, nổi tiếng nhân hậu, từng cưu mang nhiều học trò nghèo khó. Có người được ông cho tiền đóng học phí, có người được ông cho ở trọ miễn phí, thậm chí có người được ông nuôi ăn học đến khi tốt nghiệp đại học. Hôm nay là ngày giỗ ông, và những người này, giờ đã thành đạt, cùng nhau về thăm để thắp hương và tri ân.
“Mẹ chỉ định bảo con chuẩn bị ít đồ cúng đơn giản, rồi mời họ vào thắp hương, trò chuyện thôi. Ai ngờ con lại làm cả mâm cơm thế này…” – bà Hạnh nghẹn ngào. “Mẹ không nói rõ, là lỗi của mẹ. Nhưng nhìn mâm cơm này, mẹ vừa thương con, vừa nhớ ông ấy. Ông ấy mà còn sống, chắc sẽ tự hào về con lắm.”
Tôi lặng người, nước mắt chực trào. Hóa ra, mâm cơm tôi tỉ mỉ chuẩn bị không chỉ là bữa ăn, mà vô tình trở thành cầu nối giữa những ký ức về bố chồng và lòng biết ơn của những người từng được ông giúp đỡ. Tôi quay lại bàn ăn, thấy các vị khách đã bắt đầu động đũa, không còn ngại ngùng. Một người đàn ông trung niên, trông như một doanh nhân, đứng dậy, kính cẩn nói: “Chị Lan, cảm ơn chị đã chuẩn bị bữa cơm này. Thầy Tâm ngày xưa cũng hay mời chúng tôi ăn cơm nhà, giản dị mà ấm áp. Hôm nay, ngồi đây, tôi như được gặp lại thầy.”
Bữa cơm hôm đó trở thành một buổi gặp gỡ đầy cảm xúc. Các vị khách lần lượt kể về những kỷ niệm với bố chồng tôi. Người thì kể ông từng nhịn ăn sáng để mua sách cho học trò, người thì nhớ lần ông đạp xe chở mình đi thi đại học dưới trời mưa. Tôi ngồi nghe, vừa khóc vừa cười, cảm nhận được hình ảnh một người cha chồng mà tôi chưa từng gặp, nhưng nay như sống lại qua từng câu chuyện.
Mẹ chồng tôi, sau phút bối rối ban đầu, cũng hòa vào không khí. Bà kể thêm về những ngày ông Tâm còn sống, về tình yêu ông dành cho học trò và gia đình. Tôi nhận ra, đằng sau vẻ ngoài nghiêm khắc, mẹ chồng tôi là người phụ nữ giàu tình cảm, luôn tự hào về chồng mình.
Sau ngày hôm đó, mẹ chồng tôi thay đổi mạnh mẽ. Bà không còn đánh giá tôi như trước, mà thường xuyên kể tôi nghe về bố chồng, như muốn tôi hiểu hơn về ông. Tôi và bà cũng trở nên gần gũi hơn, như hai người bạn tâm giao. Những vị khách năm ấy, thỉnh thoảng giỗ ông Tâm, lại ghé thăm, mang theo những món quà nhỏ và những câu chuyện xưa. Nhà tôi hiện tại không chỉ là tổ ấm của ba người mà còn là nơi lưu giữ ký ức về một thầy, một người cha, một người chồng đáng kính.
Câu chuyện lại với hình ảnh tôi, Tuấn, mẹ chồng và các vị khách cùng nhau leo hương trước bàn thờ ông Tâm vào một ngày sau đó. Mâm cơm vẫn giản dị như hôm nay, nhưng tràn đầy yêu thương và kết nối. Tôi hét lên, thầm cảm ơn mẹ chồng, cảm ơn những điều hiểu biết vô tình đã giúp tôi hiểu hơn về gia đình, về tình thân, và về di sản mà bố chồng để lại.