Phần 1: Biển chỉ dẫn bị xé mất nửa
Tôi không mê tín. Hay ít nhất là tôi nghĩ thế cho đến đêm hôm đó.
Chuyến phượt Đà Lạt cùng nhóm bạn bị hủy phút chót do hai đứa trong nhóm dính F0. Tôi thì đã xin nghỉ, xe cũng đặt, ba lô gói ghém đâu vào đấy, nên quyết định đi một mình cho khuây khỏa. Tôi chọn đi hướng Gia Nghĩa rồi men đường nhỏ về Đà Lạt cho mới mẻ. Lúc chạy ngang huyện Krông Nô, trời bắt đầu đổ mưa phùn và sương giăng kín lối. Google Maps bất ngờ mất tín hiệu. Tôi tấp xe vào lề, mắt lướt nhanh những bảng chỉ dẫn bên đường thì thấy một cái bảng gỗ, mờ chữ, treo nghiêng vẹo trên một thân cây cao: “Nhà trọ số 14 – Có phòng – Quẹo trái 300m”.
Lạ là… nửa dưới của bảng đã bị xé mất.
Tôi do dự, nhưng ngoài trời bắt đầu tối đen, mưa nặng hạt hơn, và rõ ràng là xung quanh chẳng có thêm nhà dân nào. Tôi đành rẽ vào lối nhỏ dẫn đến nhà trọ. Đường đất đỏ trơn trượt, cây cối rậm rạp như nuốt lấy chiếc xe máy. Bỗng tôi nghe thấy tiếng bước chân chạy lẫn trong tiếng mưa… nhưng khi quay lại thì chẳng có ai.
Phần 2: Chủ nhà trọ và nội quy kỳ quái
Nhà trọ hiện ra giữa làn sương – một căn nhà gỗ hai tầng, cũ kỹ, có lan can trước hiên và đèn vàng leo lét. Một bà lão mặc áo len cũ sờn ra mở cửa, mắt nhìn tôi không chớp.
“Còn phòng không ạ?” – tôi hỏi.
Bà lão gật đầu, không nói gì, chỉ đưa tay ra hiệu bước vào. Tôi lưỡng lự nhưng mưa tạt ướt đẫm khiến tôi chẳng còn lựa chọn.
Bên trong ấm áp hơn tôi tưởng. Tường treo đầy tranh đen trắng, chủ yếu là ảnh chân dung của những người lạ mặt. Tôi nhìn quanh, cảm giác là lạ. Căn phòng có mùi hương trầm thoang thoảng, trộn lẫn mùi gỗ mục.
“Cháu là khách đầu tiên trong tuần,” bà lão cuối cùng cũng cất giọng, khàn đục. “Có hai điều cháu phải nhớ kỹ.”
Tôi nín thở.
“Thứ nhất: tuyệt đối không rời khỏi nhà trọ sau 11 giờ đêm. Dù bất kỳ lý do gì.
Thứ hai: không mở cửa số phòng 14.”
“Phòng cháu số mấy ạ?” – tôi nuốt nước bọt.
“13.”
Tôi gật đầu, cố gắng giữ bình tĩnh. Nhưng con số ấy… 13 và 14. Sao lại có một nhà trọ đánh số kiểu này?
Phần 3: Tiếng gõ cửa lúc nửa đêm
Phòng tôi nằm ở cuối hành lang tầng hai. Tường gỗ mỏng, chăn màn sạch sẽ nhưng có gì đó khiến tôi thấy không yên.
Khoảng gần 11 giờ, tôi đang xem lại bản đồ ngoại tuyến thì điện thoại tắt ngóm. Cùng lúc, đèn trong phòng chớp liên tục rồi vụt tắt.
Tôi chưa kịp định thần thì có tiếng gõ cửa.
Cốc… cốc… cốc…
Tôi bật đèn pin lên. Tim đập dồn dập.
Ai đó đang đứng ngoài cửa.
Tôi lên tiếng: “Ai đó?”
Không trả lời.
Tiếng gõ vẫn đều đều.
Tôi nhớ lời bà lão: Không ra ngoài sau 11 giờ đêm.
Tôi nhìn đồng hồ: 11:07.
Tiếng gõ biến mất. Tôi thở phào, định quay lại giường thì…
Cốc… cốc…
Lần này… từ cửa sổ.
Tôi quay phắt lại. Cửa sổ phòng tôi nằm ở lưng chừng tầng hai, không thể có ai trèo lên đó – vậy mà một cái bóng đen đang áp sát. Tôi chỉ kịp thấy ánh mắt – đen kịt, sâu hút như hố thẳm – trước khi mọi thứ tắt ngúm.
Phần 4: Phòng số 14 mở ra
Sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy trên sàn phòng. Cửa sổ vẫn đóng. Không có dấu vết gì chứng tỏ đêm qua từng có ai.
Tôi vội vã xuống nhà dưới. Bà lão vẫn ngồi đó, pha trà như chưa có gì xảy ra.
“Bà ơi, đêm qua có người…” – tôi bắt đầu nói thì bà giơ tay ngăn lại.
“Tôi đã dặn rồi.”
Tôi lặng người. Định rời đi thì trời lại mưa. Không còn cách nào khác, tôi quyết định nán lại đến trưa. Trong lúc đi dạo quanh nhà trọ, tôi thấy hành lang dẫn đến phòng số 14.
Cánh cửa… khép hờ.
Tò mò và hơi liều lĩnh, tôi bước lại gần, định nhìn trộm thì từ phía sau có tiếng gọi khẽ: “Cậu không nên làm thế.”
Tôi quay lại. Một thanh niên khoảng hai lăm tuổi, mặt trắng bệch, mắt thâm quầng. Anh ta giới thiệu tên là Tâm – cũng là khách trọ, đã ở đây ba hôm.
“Đêm nào cũng có tiếng gọi, phải không?” – anh ta hỏi.
Tôi gật đầu.
“Phòng số 14 là bẫy. Những người bước vào đó… sẽ không bao giờ trở lại.”
Phần 5: Lối đi không dành cho người sống
Tôi nhìn Tâm, lòng đầy nghi hoặc. “Ý anh là gì?”
Anh ta im lặng một lát rồi khẽ khàng:
“Tôi từng ở phòng 14, một đêm… cách đây hơn hai năm.”
Tôi rùng mình. “Nhưng sao giờ anh vẫn ở đây?”
Anh nhìn tôi, ánh mắt trống rỗng như đã chết nửa linh hồn.
“Bởi vì tôi không thể rời khỏi đây nữa. Giống như những người khác.”
Tôi nghe xong mà như bị bóp nghẹt cổ họng. “Ý anh là sao? Có gì trong căn phòng đó?”
Tâm đưa tay chỉ lên trán mình:
“Nó không giết người ngay lập tức. Nó hút ký ức, rồi bóp méo thực tại. Nó làm cậu không còn nhớ vì sao mình tới đây, rồi dần dần, cậu quên cả tên mình. Cho đến khi cậu không còn là ‘cậu’ nữa, mà chỉ là một… hình dạng lặp đi lặp lại.”
Tôi cười nhạt, không tin. Nhưng đêm qua… con mắt đen kịt ấy…
Tôi quay đầu lại nhìn cánh cửa phòng số 14. Nó đã đóng kín.
Phần 6: Bức ảnh trên tường và những gương mặt mờ dần
Buổi chiều, tôi lang thang quanh hành lang tầng trệt. Những bức ảnh đen trắng treo khắp nơi lại thu hút sự chú ý của tôi.
Lần này, tôi nhìn kỹ hơn. Mỗi bức đều là ảnh chân dung, góc chụp tương tự, khuôn mặt không cảm xúc. Và điều đáng sợ là… nhiều bức ảnh có vẻ đang phai màu theo cách lạ thường – nhưng chỉ là phần khuôn mặt. Các gương mặt dần trở nên nhòe nhoẹt, méo mó như thể ai đó đang cố xóa sạch danh tính.
Tôi tiến tới một khung ảnh có vẻ mới hơn những cái khác.
Gần như chết đứng.
Đó là ảnh của Tâm – chàng trai mà tôi vừa nói chuyện – nhưng trong bức ảnh, anh ta đang mỉm cười.
Tôi lập tức chạy lên tầng, đập cửa phòng Tâm. Không có ai trả lời.
Tôi mở cửa – căn phòng trống rỗng, bụi phủ kín.
Không thể nào… Anh ta vừa nói chuyện với tôi ban sáng mà?
Tôi thẫn thờ lùi lại, rồi chợt quay nhìn xuống cuối hành lang.
Cửa phòng số 14 đang mở hé.
CÒN TIẾP ….